Top 7 # Xem Nhiều Nhất Luật Quy Định Mang Thai Hộ Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Tobsill.com

Quy Định Của Pháp Luật Về Mang Thai Hộ

Mang thai hộ là một trong những quy định mới được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được coi là bước đột phá trong công tác lập pháp, mở ra niềm hy vọng mới cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn không thể sinh con ở nước ta.

Tuy nhiên, thời gian gần đây hình thức này đang bị một số đối tượng biến tướng thành dịch vụ thương mại để kiếm tiền môi giới.

Trong khi người được nhờ mang thai hộ chỉ vì cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến những rủi ro cả về sức khỏe và vướng mắc pháp luật. Từ đó hình thành các đường dây môi giới mang thai hộ không chỉ trong nước mà còn xuyên quốc gia.

Sự gia tăng của các đường dây môi giới mang thai hộ đang cho thấy thực trạng về nguồn cung – cầu cũng như việc người dân thiếu nhận thức, chưa nắm rõ các hệ lụy của việc mang thai hộ theo hình thức thương mại và những quy định pháp luật.

Quy định của Pháp luật về mang thai hộl à nội dung của chuyên mục Bạn và Pháp luật trên kênh VOV1 với sự tham gia tư vấn của Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch công ty Luật SBLAW.

1.Thưa luật sư! Rõ ràng việc có một đứa con cùng huyết thống với mình là một nhu cầu chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh. Vấn đề ” mang thai hộ” đã được Luật hóa từ sau khi Luật hôn nhân gia đình năm 2014 ra đời. Ông có thể phân tích những tác động tích cực khi mà việc mang thai hộ được Luật hóa ở nước ta ?

Mang thai hộ là một trong những quy định mới được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014 và là một bước đột phá trong công tác lập pháp, mở ra niềm hy vọng mới cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn không thể sinh con. Trong thực tế cuộc sống, các trường hợp vô sinh hiếm muộn xảy ra ngày càng nhiều và có nguy cơ tăng cao tại nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.

Như vậy, các quy định về mang thai hộ sẽ tạo khung pháp lý an toàn trong các giao dịch mang thai hộ và có cơ chế phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại như hiện nay đồng thời giúp các cơ quan chức năng có thể kiểm soát được một phần nào đó nhu cầu mang thai hộ hiện nay.

Mặt khác, việc pháp luật cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã giúp cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn có cơ hội được làm cha làm mẹ, giải tỏa được gánh nặng tâm lý gia đình, hạn chế được sự đổ vỡ của hôn nhân.Có thể nói đây là quy định mang tính nhân văn, góp phần ổn định xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

2. Quy định của Pháp luật cũng đã nêu rõ: chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và nghiêm cấm các hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Vậy ý nghĩa của từ ” nhân đạo” được quy định trong Luật cần được hiểu như thế nào thưa ông?

Khoản 22 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy định về khái niệm mang thai hộ như sau: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.” Mang thai hộ là một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện thực. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ.

Việc mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh của xã hội.

3. Thời gian qua, liên tiếp các đường dây môi giới mang thai hộ vì mục đích thương mại đã bị điều tra, khám phá. Điều này cho thấy thị trường môi giới mang thai hộ đang diễn ra rất phức tạp và ngày càng biến tướng. Ông đánh giá như thế nào về thực trạng này?

Về mặt xã hội, quy định mang thai hộ có tính nhân đạo giúp các cặp vợ chồng có vấn đề về sức khoẻ có khả năng có con theo ý nguyện. Đây cũng là việc phù hợp với truyền thống văn hoá của người dân Việt Nam là muốn có con nối dõi. Về mặt pháp luật, cho phép mang thai hộ sẽ hạn chế tình trạng đẻ thuê, đẻ mướn, buôn bán trẻ em. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng đã phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, thậm chí là trái pháp luật. Thời gian gần đây, đã có những trường hợp vi phạm pháp luật về mang thai hộ bị khởi tố, xét xử. Điều này cho thấy mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đang bị biến thành hoạt động thương mại do chưa thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về điều kiện đối với người mang thai hộ.

Không ít người dân không hiểu đúng thế nào là người thân thích nên khi nộp hồ sơ mang thai hộ thì bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ chứng minh quan hệ thân thích và cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ sở khám, chữa bệnh thực hiện mang thai hộ do không nắm vững quy định về người thân thích nên đã chấp nhận hồ sơ mà không biết hồ sơ này không phù hợp với quy định pháp luật.

4. Hiện nay ở các gia đình hiếm muộn đểu có nhu cầu mang thai hộ. Trong khi đó việc để có được 1 bộ hồ sơ hợp pháp mang thai hộ lại cần rất nhiều thủ tục pháp lí quy định chặt chẽ. Do đó nhiều gia đình đã chọn lối đi tắt, tìm đến các đối tượng này và có cung ắt phải có cầu. Đây có phải chăng là nguyên nhân dẫn tới việc các đường dây môi giới đẻ thuê hoạt động ngầm đang cho chiều hướng gia tăng trong thời gian qua?

Để tránh mang thai hộ vì mục đích thương mại, điều kiện để thực hiện mang thai hộ được quy định rất chặt chẽ.

Luật HNGĐ 2014 đã quy định điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

– Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.

– Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

b) Vợ chồng đang không có con chung;

c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

– Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;

b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;

đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

Theo đó, vợ chồng và người được nhờ mang thai hộ phải đáp ứng tất cả các điều kiện trên thì mới có thể được xem xét mang thai hộ.

Tuy nhiên, chính vì điều kiện quá chặt chẽ, do đó những trường hợp không đáp ứng các điều kiện trên thì họ phải tìm những người mang thai hộ trái pháp luật.

5. Sau những vụ việc mang thai hộ vì mục đích thương mại bị triệt phá thì người ta mới giật mình về sự biến tướng của hình thức mang thai hộ vốn được công nhận vì mục đích nhân đạo. Thực tế hình thức này đã trở thành một “dịch vụ ngầm” mà người ta vẫn gọi là “đẻ thuê” hay “cho thuê tử cung”. Việc mang thai hộ không nằm trong sự bảo trợ của pháp luật có thể gây ra những hệ lụy như thế nào?

Việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, không nằm trong sự bảo trợ của pháp luật có thể dẫn đến rất nhiều hệ lụy.

Thứ nhất là sức khỏe của người mang thai hộ có thể gặp nhiều vấn đề nếu mang thai hộ nhưng sau đó lại phải phá thai. Đây không phải trường hợp hiếm gặp khi có nhiều gia đình lúc thuê đẻ thì rất chắc chắn nhưng đến khi người đẻ thuê mang thai rồi thì lại ly hôn mỗi người một nơi. Vì mang thai bất hợp pháp nên người đẻ thuê cũng rất khó khăn để tìm lại đôi vợ chồng đó hay bắt họ phải thanh toán tiền nên nhiều người đã chọn cách phá thai.

Nhu cầu mang thai, có con là vô cùng chính đáng, thế nhưng mọi người cũng cần phải cân nhắc, suy xét thấu đáo, bởi khi làm “chui” có nghĩa là phải gánh chịu rủi ro, thậm chí mất cả chì lẫn chài. Đó còn chưa kể các vấn đề nguy hiểm về sức khỏe, những phát sinh tranh chấp sau này.

Thứ hai, khi làm “chui”, về sức khỏe cơ sở chui không đảm bảo về khoa học, vô trùng, không đảm bảo về sức khỏe. Về phương diện xã hội và huyết thống có thể không đảm bảo.

Chưa kể đến những trường hợp cần mang thai hộ tự tìm đến các phòng khám kém chất lượng bơm tinh trùng tươi vào tử cung để có thai. Hành động này kéo theo rất nhiều rủi ro khi không đảm bảo được vệ sinh, dễ nhiễm trùng ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng người phụ nữ.

6. Mặc dù rất nhiều các đường dây mang thai hộ đã bị triệt phá từ trước đến nay nhưng hành vi này vẫn không có dấu hiệu giảm. Phải chăng do chính những kẽ hở của pháp luật là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng này?

Điều 95 Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định khá chặt chẽ và chi tiết về điều kiện mang thai hộ. Đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Cụ thể, Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vi phạm điều kiện, quyền, nghĩa vụ được quy định tại Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự”.

Để ngăn chặn việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định việc xử lý hình sự đối với Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại tại Điều 187. Theo quy định tại Điều này thì người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm khi thuộc một trong các trường hợp: đối với 2 người trở lên, phạm tội 2 lần trở lên, tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Pháp luật chỉ xử lý hình sự đối với những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, còn người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ vì mục đích thương mại chưa có chế tài xử lý. Trong khi đó, trong xã hội có cầu, ắt có cung nên sẽ không khó hình dung sự xuất hiện của một người đứng ra sắp xếp, tổ chức, gắn cung – cầu với nhau.

7. Khi các đường dây môi giới mang thai hộ này bị bóc gỡ thì kẻ môi giới, những gia đình, những phụ nữ tham gia chắc chắn sẽ phải chịu những chế tài của pháp luật. Nhưng tôi băn khoăn, những đứa trẻ được sinh ra từ hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại liệu có phải hứng chịu những hệ quả từ việc làm sai trái của người lớn?

Mọi đứa trẻ sinh ra từ việc làm sai trái của người lớn đều sẽ phải hứng chịu những hệ quả dù ít hay nhiều nhất là trong trường hợp này khi mà việc mang thai và sinh con mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng thì giờ đây nó lại bị mang ra với mục đích thương mại và được quy ra bằng tiền.

Cụ thể hành vi này bị Pháp luật nghiêm cấm nên có nhiều cơ sở vẫn thực hiện chui. Điều này khiến cho điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện sinh hoạt sẽ không thể diễn ra như bình thường. Trong khi giai đoạn thai kỳ là vô cùng quan trọng để quyết định đến sự phát triển sau này của đứa trẻ thì người mang thai không thể chăm em bé chu đáo và đi khám thai kỳ thường xuyên được. Vì vậy khiến cho một đứa trẻ sinh sẽ có thể bị ảnh hưởng tới sức khoẻ và trí não. Chưa kể việc kiểm soát danh tính, lai lịch của những người nhờ mang thai hộ là không có nên việc đứa trẻ bị đưa đi đâu với mục đích gì cũng không thể chắc chắn.

8. Theo ông, làm thế nào để ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại, trả lại ý nghĩa nhân văn như nó vốn có?

Thứ nhất, hiện nay quy định về chế tài xử phạt đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại còn khá thấp, chưa rõ ràng nên còn rất nhiều đối tượng lách luật. Vì vậy cần phải có quy định chặt chẽ hơn về công tác quản lý và tăng khung hình phạt đối với hành vi trên.

Thứ hai, có thể thực hiện kiểm soát qua y tế. Nhà nước có thể quy định mỗi người chỉ được phép mang thai hộ 01 lần và qua kiểm soát hồ sơ y tế có thể biết được người nào mang thai hộ nhiều lần để kịp thời phát hiện.

Thứ ba, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nâng cao hình thức giáo dục, tuyên truyền để cả những người mang thai hộ và những người nhờ mang thai hộ nắm được quy định pháp luật về mang thai hộ. Ngoài ra, để mọi người có thể hiểu rõ về ý nghĩa thiêng liêng và hiểu đúng về mục đích của việc này.

9. Vậy còn đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn, có nhu cầu mang thai hộ thực sự thì cần chú ý những điều gì và cần những thủ tục pháp lý gì để không vi phạm pháp luật, thưa ông?

Thứ nhất, đối với cặp vợ chồng hiếm muộn thì cần có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền

Thứ hai, theo quy định tại Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thìhồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gửi đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm:

Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định số/2015/NĐ-CP;

Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Nghị định số/2015/NĐ-CP;

Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;

Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;

Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số/2015/NĐ-CP và đã từng sinh con;

Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.

Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;

Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên;

Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý;

Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định tại Mẫu số 06 ban hành kèm theo Nghị định số/2015/NĐ-CP.

Thứ ba, khi thực hiện kỹ thuật mang thai hộ, Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ sẽ có trách nhiệm tư vấn pháp lý về theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.

Xin được cảm ơn những chia sẻ của Luật sư trong chương trình ngày hôm nay. Chuyên mục Bạn và Pháp luật tuần này cũng xin được kết thúc ở đây. Cảm ơn luật sư Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch công ty SBLAW đã đồng hành cùng chương trình, cảm ơn quý thính giả đã để tâm theo dõi.

Vấn Đề Mang Thai Hộ Quy Định Theo Luật Thế Nào?

09/11/2019

Chào luật sư, cho tôi hỏi: Tôi đã có 2 con ( đứa lớn 10 tuổi, đứa nhỏ 5 tuổi) và vợ chồng tôi đều là công nhân viên nhà nước( hiện cả 2 đang là CBQL).Tôi có 3 người chị chồng, 3 chị chồng đều không có chồng và không có con ( 3 chị đều có công ăn việc làm, có nhà riêng) 3 chị muốn tôi sanh cho 3 chị một đứa con để lo hương quả.

Trong hoàn cảnh này tôi có sanh thêm nữa đựợc không? với tư cách là mang thai hộ? Hãy trả lời giúp tôi, tôi đang rối vì áp lực từ gia đình chồng. Xin cảm ơn luật sư.

Thứ nhất, có được sinh thêm con thứ ba không?

Trước đây để thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình, nhà nước ta cấm các gia đình sinh con thứ ba trở lên đối với công nhân viên chức. Nếu sinh con thứ ba thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính Nhưng từ khi Nghị định 176/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì đã gỡ bỏ quy định này, không có quy định về xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em về việc sinh con thứ ba.

Hiện tại, pháp luật không cấm việc sinh con thứ ba đối với cán bộ, công chức, viên chức nhưng trong mỗi cơ quan, đơn vị có thể quy định những hình thức kỉ luật, hình thức xử lý hợp lý đối với cán bộ, công nhân viên sinh thêm con thứ ba.

Trường hợp nếu vợ, chồng bạn là Đảng viên thì vợ, chồng bạn sẽ bị xử lý kỉ luật theo quy định tại Điều 26 Quyết định 181/QĐ-TW: Đảng viên sinh con thứ ba (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách; sinh con thứ tư thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức; sinh con thứ năm trở lên thì bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ.

Thứ hai, có được mang thai hộ hay không?

Khoản 22 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giải thích: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”

Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. 2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi hỗ trợ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; b) Vợ chồng đang không có con chung; c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. 3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ 1 lần; c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. 4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Theo hướng dẫn của Nghị định 10/2015/NĐ-CP, người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em còn chú, còn bác, còn cô, còn cậu. con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ.

Căn cứ vào những điều kiện trên thì cả 3 người chị chồng của bạn và bạn đều không đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ. Do vậy, theo quy định của pháp luật bạn không được mang thai hộ.

Mang Thai Hộ Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam

Mang thai hộ là một trong những quy định mới được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014 và là một bước đột phá trong công tác lập pháp, mở ra niềm hy vọng mới cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn không thể sinh con. Trong thực tế cuộc sống, các trường hợp vô sinh hiếm muộn xảy ra ngày càng nhiều và có nguy cơ tăng cao tại nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì Việt Nam đang là một trong những quốc gia tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương có tỷ lệ sinh thấp nhất nhưng tỷ lệ vô sinh thì lại cao nhất.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam[1]. Vô sinh (infertility) được định nghĩa là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống, quan hệ tình dục trung bình 2-3 lần/tuần, không sử dụng bất kỳ biện pháp tránh thai nào mà người vợ vẫn chưa có thai. Có thể hiểu vô sinh là hiện tượng mất hay thiếu khả năng sinh sản xảy ra trong khoảng 10-15% các cặp nam nữ muốn có con[2].

Theo quy định pháp luật Việt Nam thì “Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”[3]. Vô sinh có thể nguyên phát từ người vợ hoặc người chồng hoặc cả hai. Theo nghiên cứu do Trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Bệnh viện Phụ sản Trung ương thực hiện ở 8 tỉnh thành, trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ cho thấy: Tỉ lệ vô sinh hiếm muộn tại Việt Nam ngày càng tăng cao, lên đến 7,7%. Trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và thứ phát là 3,8%. Đặc biệt, 50% trong số đó là các cặp vợ chồng có tuổi đời dưới 30. Cũng trong nghiên cứu này, tỷ lệ vô sinh ở nam giới ngày càng tăng cao[4]. Ngay tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản (Bệnh viện Phụ sản trung ương), nếu như khoảng 10 năm trước, mỗi tuần tại đây tiếp nhận từ 2 đến 3 cặp vợ chồng đến điều trị các vấn đề về vô sinh hoặc hiếm muộn thì đến thời điểm hiện tại, con số này đã tăng lên từ 40 đến 60 cặp vợ chồng (gấp 20 lần)[5].Tình trạng vô sinh, hiếm muộn dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề cho các gia đình và xã hội. Bên cạnh gánh nặng về chi phí theo đuổi chữa trị mà còn dẫn đến những rạn nứt về mặt tình cảm vợ chồng, đè nặng tâm lý cho các thành viên gia đình và là một trong những nguyên nhân dẫn đến hôn nhân tan vỡ.

Theo quy định của pháp luật HNGĐ trước đây thì Nhà nước “nghiêm cấm mang thai hộ”[6] dưới mọi hình thức thì đến Luật HNGĐ năm 2014 đã thay đổi bằng quy định “Nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại”. Như vậy, sau 10 năm pháp luật HNGĐ đã có nhìn nhận mới liên quan đến vấn đề mang thai hộ. Bên cạnh việc pháp luật đưa ra hai khái niệm về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại, Luật HNGĐ năm 2014 cũng như các văn bản hướng dẫn đã có những quy định cụ thể về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Có thể nói, quy định này có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với các vợ chồng vô sinh, hiếm muộn mà còn có ý nghĩa đối với Nhà nước trong việc quản lý xã hội.

Một mặt các quy định về mang thai hộ sẽ tạo khung pháp lý an toàn trong các giao dịch mang thai hộ và có cơ chế phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại như hiện nay đồng thời giúp các cơ quan chức năng có thể kiểm soát được một phần nào đó nhu cầu mang thai hộ hiện nay. Các quy định pháp luật về mang thai hộ giúp bảo vệ tốt hơn quyền của bà mẹ và trẻ em. Mặt khác, việc pháp luật cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã giúp cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn có cơ hội được làm cha làm mẹ, giải tỏa được gánh nặng tâm lý gia đình, hạn chế được sự đổ vỡ của hôn nhân. Có thể nói đây là quy định mang tính nhân văn, góp phần ổn định xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong chuyên đề này sẽ đề cập đến một số vấn đề về mang thai hộ theo pháp luật hiện hành.

2.Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề mang thai hộ

2.1. Mục đích của việc mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành

Luật HNGĐ đã đưa ra hai khái niệm liên quan đến mục đích của việc mang thai hộ, cụ thể:

– Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con[7].

– Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác[8].

– Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm[9].

Theo quy định pháp luật ranh giới để phân biệt được trường hợp mang thai vì mục đích nhân đạo với trường hợp mang thai vì mục đích thương mại là việc các bên có hoặc không có các thỏa thuận liên quan đến việc bên mang thai hộ sẽ được hưởng lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác. Nói một cách khác thì việc mang thai hộ không có yếu tố vật chất thì có thể goi là “mang thai hộ không vì mục đích thương mại“[10].Tuy nhiên, theo quan điểm tác giả để xác định chính xác vấn đề này không phải là vấn đề đơn giản bởi pháp luật khó có thể kiểm soát được các vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Chẳng hạn phải hiểu thế nào là “hưởng lợi ích kinh tế hoặc lợi ích khác” cho chính xác, liệu lợi ích kinh tế có bao gồm một số trường hợp như bên nhờ mang thai hộ cung cấp một số tiền để bên mang thai hộ trang trải chi phí an dưỡng thai, hoặc một số tiền để sau khi người mang thai hộ sinh con thành công để phục hồi sức khỏe. Có thể trong một số trường hợp số tiền này là rất lớn và không đơn thuần là để bồi dưỡng sức khỏe mà là tiền thù lao cho việc mang thai hộ. Bởi vậy, để phân biệt chính xác hơn mục đích của việc mang thai hộ thì cần thiết phải có những quy định cụ thể liên quan đến việc đưa ra các tiêu chí chi tiết đến việc mang thai hộ vì mục đích thương mại, từ đó có các cơ chế rõ ràng nhằm hạn chế được việc biến tướng của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trên thực tế.

2.2. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo 2.2.1. Điều kiện của việc mang thai hộ đối với bên nhờ mang thai hộ

Tham khảo pháp luật một số nước cho phép mang thai hộ điều kiện của hai phía là người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ. Theo Đạo luật mang thai hộ của Australia, người mẹ nhờ mang thai hộ phải là người: Không thể thụ thai; hoặc nếu có thể thụ thai thì có khả năng không thể mang thai hoặc sinh đẻ; hoặc khó có thể sống sót sau khi sinh; hoặc có thể bị ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng nếu sinh con; hoặc có thể sinh ra đứa trẻ khuyết tật do những khiếm khuyết về gen của người mẹ; hoặc đứa trẻ khó có thể sống sót trong quá trình thụ thai hoặc có thể bị ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng do việc sinh nở. Việc nhờ mang thai hộ của cặp đồng tính nam hay đồng tính nữ cũng có thể được xem xét. Ngoài ra, người hoặc cặp vợ chồng mang thai hộ và nhờ mang thai hộ đều phải từ 25 tuổi trở lên; người mang thai hộ phải được tư vấn, kiểm tra và xác nhận về sức khỏe, tâm lý và các vấn đề pháp lý trước khi quá trình mang thai hộ được tiến hành[11].

Theo quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ năm 2014: “Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; b) Vợ chồng đang không có con chung; c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”.

Thứ nhất, về điều kiện “Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” nhằm xác định được việc mang thai hộ là giải pháp tình thế cuối cùng để các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muôn được làm cha mẹ. Đây là điều kiện đầu tiên bắt buộc các cặp vợ chồng phải thỏa mãn khi muốn nhờ người khác mang thai hộ. Tuy nhiên, quy định này của pháp luật đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

Cách hiểu thứ nhất là người vợ sau khi đã áp dụng tất cả các phương pháp sinh con, cả phương pháp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng không thể sinh con và được tổ chức y tế có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận không thể mang thai. Cách hiểu thứ hai là người vợ vì có những bệnh lý liên quan đến sức khỏe sinh sản dẫn đến việc không thể mang thai. Tức là người vợ chỉ cần làm những xét nghiệm, kiểm tra y khoa và được cơ sở y tế có thẩm quyền kết luận không thể có khả năng mang thai mặc dù có thể chưa từng trải qua các phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Hiện nay, các quy định pháp luật chưa đưa ra hướng dẫn liên quan đến việc hiểu chính xác điều kiện này của mang thai hộ.

Nếu hiểu theo cách hiểu thứ nhất thì sẽ dẫn đến việc loại trừ những trường hợp nhiều người vợ vì lý do bệnh lý mà bác sĩ khuyên cáo không thể sinh con bằng phương pháp kỹ thuật ra khỏi danh sách những người đủ điều kiện nhờ mang thai hộ. Còn theo cách hiểu thứ hai thì phạm vi chủ thể nhờ mang thai hộ sẽ mở rộng hơn nhưng sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trên thực tế như có những cặp vợ chồng không thực sự gặp vấn đề liên quan đến vô sinh hiếm muộn nhưng lại “cố tình” xin được giấy chứng nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền để nhờ mang thai hộ dẫn đến hàng loạt các hệ lụy liên quan đến việc có dịch vụ cung cấp chứng nhận giả khi mà trên thị trường có cung ắt có cầu, làm biến tướng đi mục đích mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Tại điểm đ khoản 1 Điều 14 Nghị định 10/2015 quy định về hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Như vậy, thì cách hiểu thứ hai phù hợp hơn theo tinh thần của Nghị định 10/2015/NĐ – CP. Tuy nhiên, để cách hiểu liên quan đến điều kiện này được rõ ràng thì pháp luật HNGĐ cần có những hướng dẫn cụ thể liên quan đến việc xác định rõ cách thức thực hiện việc xác nhận khả năng mang thai của người vợ tại các cơ sở y tế có thẩm quyền trước khi đưa ra được kết luận y khoa đồng thời phải có những chế tài ràng buộc liên quan đến tính chính xác của các bản xác nhận này nhằm hạn chế tình trạng gian lận trong quá trình cấp giấy chứng nhận cho chủ thể nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Thứ hai, về điều kiện “vợ chồng đang không có con chung”. Có thể nói quy định pháp luật này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ phải chưa từng có con chung cho đến thời điểm nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, cách hiểu này dẫn đến một trường hợp cả hai vợ chồng không có con chung đến thời điểm nhờ mang thai hộ nhưng họ lại có con riêng liệu có thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ. Một quan điểm khác cho rằng pháp luật chỉ hạn chế việc vợ chồng đang có con chung thì không được nhờ mang thai hộ, nên nếu vợ chồng đã từng có con chung nhưng đến thời điểm nhờ mang thai hộ thì đứa con không còn sống, họ muốn có thêm con nhưng vì lý do bệnh lý nên người vợ không thể mang thai được thì vẫn được coi là đủ điều kiện nhờ mang thai hộ.

Một vấn đề đặt ra nếu trong trường hợp vợ chồng có con chung nhưng vì lý do bệnh tật mà đứa trẻ phát triển không bình thường, bị tâm thần nên vợ chồng muốn sinh thêm con nhưng không thể thụ thai được nữa (trường hợp vô sinh thứ phát)[12] thì có được coi là đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ vì trên thực tế họ vẫn “đang có con chung”.

Bên cạnh đó, Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ quy định trong hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ cần có: “Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận “. Như vậy, nếu hiểu theo quy định tại Nghị định 10/2015/NĐ – CP thì phạm vi đối tượng được nhờ mang thai hộ bị thu hẹp, tức là chỉ những cặp vợ chồng chưa từng có con chung mới đủ điều kiện đề nghị nhờ mang thai hộ. Việc nghị định sử dụng thuật ngữ “chưa có con chung” đang mâu thuẫn với thuật ngữ “đang không có con chung” tại Luật HNGĐ năm 2014 làm mất đi tính chính xác và thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo quan điểm của tác giả, để thể hiện tính nhân văn của quy định mang thai hộ, thì trường hợp các cặp vợ chồng đã từng có con chung nhưng ở thời điểm hiện tại người con chung không còn sống, hoặc không phát triển bình thường, mà vợ chồng muốn có thêm con nhưng không thể tiếp tục sinh con vì lý do bệnh lý thì pháp luật nên cân nhắc cho việc họ thuộc đối tượng chủ thể được nhờ mang thai hộ, nếu họ tuân thủ pháp luật về dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Thứ ba, điều kiện về việc “đã được tư vấn y tế, pháp lý, tâm lý”. Quy định này nhằm giúp các bên trong quan hệ mang thai hộ có thể nắm bắt, hình dung được quá trình mang thai hộ, các quyền nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ việc mang thai hộ, những vấn đề phát sinh khác như tâm lý của các bên… để họ có thể chuẩn bị tốt nhất cho quyết định của mình trước khi bắt đầu hành trình làm cha mẹ qua kỹ thuật mang thai hộ. Điều kiện này góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người phụ nữ cũng như của trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ. Nghị định 10/2015/NĐ – CP hướng dẫn chi tiết về các nội dung tư vấn y tế, pháp lý, tâm lý cho người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ[13]. Có thể nói hoạt động tư vấn này có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị đầy đủ sức khỏe, tinh thần, nắm rõ được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ, để quá trình mang thai hộ được diễn ra một cách suôn sẻ, thuận lợi, hạn chế được các tình huống xấu nhất xảy ra như sức khỏe, tinh thần ảnh hưởng, các bên xảy ra các tranh chấp trước, trong và sau quá trình mang thai hộ. Bởi vậy, để hoạt động tư vấn có hiệu quả tránh các trường hợp tư vấn hình thức, cần thiết phải chuyên nghiệp hóa hoạt động tư vấn thông qua việc nâng cao bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và cần thiết mỗi lĩnh vực tư vấn thì tư vấn viên cần có những chứng chỉ nghề nghiệp do các cơ quan chuyên môn đánh giá cung cấp.

(Còn nữa – Kỳ sau: Về điều kiện của việc mang thai hộ đối với người mang thai hộ và một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình mang thai hộ)

Tham khảo bài viêt bài viết: [1] “Tỉ lệ vô sinh ở Việt Nam đang vào mức cảnh báo”, Nguồn Website: https://dantri.com.vn/suc-khoe/ti-le-vo-sinh-o-viet-nam-dang-vao-muc-canh-bao-20180405120937326.htm, Ngày truy cập: 20/8/2018

[2] Theo Wikipedia, Website: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4_sinh, ngày truy cập: 20/8/2018

[3] Xem Khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28/1/2015 của Chính Phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

[4] Tham khảo bài viết “Gia tăng tình trạng vô sinh, hiếm muộn”, nguồn Website: https://baomoi.com/gia-tang-tinh-trang-vo-sinh-hiem-muon/c/27668957.epi, ngày truy cập 15/8/2018

[5] Tham khảo bài viết “Nguyên nhân khiến tình trạng vô sinh ở VN tăng 20 lần, nhiều cặp dưới 30 tuổi đã vô sinh”, nguồn Website: http://soha.vn/nguyen-nhan-khien-tinh-trang-vo-sinh-o-vn-tang-20-lan-nhieu-cap-duoi-30-tuoi-da-vo-sinh-20180917102417912.htm, Ngày truy cập: 20/8/2018

[6] Xem khoản 1 Điều 6 Nghị định số 12/2003 của Chính phủ ban hành ngày 12/2/2003 về việc sinh con theo phương pháp khoa học.

[7] Xem khoản 22 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014

[8] Xem khoản 23 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014

[9] Xem Khoản 21 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014

[10] Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), TS. Nguyễn Thị Lan, Chuyên đề “Chế định mang thai hộ theo Luật HNGĐ năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Cơ sở lý luận và thực tiễn của những điểm mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 20014, Hà Nội, trang 264.

[11] Xem Điều 14.2 Đạo luật mang thai hộ Australia năm 2010.

[12] Tham khảo bài viết: “Vô sinh thứ phát và nỗi đau của những cặp vợ chồng hiếm muộn”, nguồn: website: https://www.nguoiduatin.vn/vo-sinh-thu-phat-va-noi-dau-cua-nhung-cap-vo-chong-hiem-muon-bai-1-bat-ngo-vo-sinh-a83725.html, Ngày truy cập: 20/8/2018

[13] Xem Điều 15, 16, 17 Nghị định 10/2015/NĐ – CP

Quy Định Mang Thai Hộ

Làm mẹ là một thiên chức cao cả đối với người phụ nữ. Tuy nhiên, hiện nay lại có rất nhiều trường hợp vợ chồng không có con do vô sinh hay vì một lý do nào đó mà vẫn chưa có con trong nhiều năm dù đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến. Giải pháp hữu ích hiện nay cho cặp vợ chồng này là dùng phương pháp nhờ mang thai hộ bằng cách lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con[1]. Vậy quy định mang thai hộ cụ thể như thế nào là đúng?

Pháp luật quy định mang thai hộ có hai loại đó là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Hiện nay tại Việt Nam chỉ công nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, còn việc mang thại hộ vì mục đích thương mại bị nghiêm cấm. Nếu người nào thực hiện hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự[2].

Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo xuất phát từ cơ sở tự nguyện của các bên. Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo quy định mang thai hộ sau:

Vợ chồng nhờ mang thai hộ

– Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

– Vợ chồng đang không có con chung;

– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

– Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;

– Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

– Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

– Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng vè vấn đề này;

– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý cho việc sẵn sàng mang thai hộ.

Lưu ý: ở đây là người mang thai hộ phải là người thân thích của bên vợ hoặc bên chồng như anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Việc khoanh vùng đối tượng mang thai hộ này có thể hạn chế tình trạng đẻ thuê, tranh chấp xảy ra hay hoạt động mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Trước khi làm thủ tục nhờ mang thai hộ đến cơ sở y tế, hai bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ phải lập văn bản thỏa thuận việc mang thai hộ và văn bản này phải được công chứng mới có giá trị[3]. Việc vợ/chồng ủy quyền cho nhau để ký kết thỏa thuận thì việc ủy quyền này cũng phải được lập thành văn bản có công chứng. Sau đó nộp hồ sơ đến cơ sở y tế như sau:

Cơ sở KCB có đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:

Bệnh viện Phụ sản trung ương;

Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;

Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh.

Hồ sơ gồm:

Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ (Mẫu số 04 NĐ 10/2015);

Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Mẫu số 05 NĐ 10/2015);

Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào đề phòng việc mang thai hộ vì mục đích thương mại;

Bản xác nhận cho thấy tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND xã/phường nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;

Bản xác nhận của cơ sở KCB được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

Bản xác nhận của cơ sở KCB được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định và đã từng sinh con;

Bản xác nhận chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng của UBND xã/phường hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ.;

Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.

Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;

Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên;

Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý;

Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ.

Đứa trẻ sinh ra trong trường hợp này được xác định là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Người mẹ nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ đều được hưởng chế độ thai sản theo luật. Bạn có thể tham khảo bài viết ” Thủ tục giải quyết chế độ thai sản khi sinh con “.

Nếu người nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm quy định mang thai hộ về nghĩa vụ cấp dưỡng thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Nếu người nhờ mang thai hộ chết thì đứa trẻ sẽ được hưởng thừa kế theo quy định. Trong trường hợp người nhờ mang thai hộ chết khi chưa giao đứa trẻ thì người mang thai hộ có quyền nhận nuôi dưỡng đứa trẻ.

Các tranh chấp trong trường hợp này sẽ do Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Hiện nay, chưa có một quy định mang thai hộ nào hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính, quan hệ dân sự nếu một trong hai bên vi phạm thỏa thuận về việc mang thai hộ[4]. Cho nên cũng đã có nhiều trường hợp con sinh ra do việc mang thai hộ nhưng vì lý do nào đó người nhờ mang thai hộ lại không nhận con hay người mang thai hộ không chịu giao con sau khi sinh. Do đó, đây là điểm bất cập của Luật khi quy định nhưng lại không quy định mang thai hộ rõ ràng cụ thể xử lý vi phạm như thế nào để áp dụng.

Luật Nghiệp Thành cảm ơn các bạn đã xem và mong nhận được phản hồi, góp ý bổ sung.

Nguồn bài viết: Tổng hợp.

[1] Điều 5.2.g Luật HNGĐ 2014

[2] Điều 187 BLHS 2015

[3] Điều 96.2 Luật HNGĐ 2014

[4] Điều 100 Luật HNGĐ 2014